Chỉ thị 29 có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành và sẽ thay thế Chỉ thị số Chỉ thị số 21/CT-TTg ngày 26/8/2015 (Chỉ thị 21) của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh than.
Nắn dòng “vàng đen”
Than đá các loại vốn được mệnh danh là "vàng đen" và trên thực tế chưa bao giờ mất đi ý nghĩa của danh từ này. Cũng chính bởi điều này mà chỉ trong vòng 4 năm trở lại đây, Thủ tướng Chính phủ đã liên tiếp ban hành hai chỉ thị về công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh than. Điều này càng trở nên quan trọng trong khi những năm sắp đến, các dự án nhiệt điện vẫn sẽ đóng vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống điện của đất nước cũng như bảo đảm an ninh năng lượng.
Trên thực tế, năm 2015 việc Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 21 là rất kịp thời. Sau bốn năm thực hiện Chỉ thị số 21, theo các cơ quan chức năng, tình trạng khai thác, vận chuyển và kinh doanh than trái phép đã giảm, việc tiêu thụ than bất hợp pháp đã được hạn chế, góp phần cho ngành công nghiệp than phát triển bền vững, đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước.
Đáng chú ý, việc cung cấp than cho sản xuất điện được Chính phủ, các bộ, ngành chỉ đạo kịp thời, tích cực và đã đạt được những tiến bộ nhất định, góp phần tích cực trong việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên bên cạnh các mặt tích cực nêu trên, việc khai thác và kinh doanh than trái phép vẫn còn diễn ra và tiềm ẩn nguy cơ tái diễn. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng ở trung ương và địa phương, đặc biệt là giữa các địa phương có hoạt động sản xuất, kinh doanh than chưa thật sự chặt chẽ; cá biệt có hành vi tiếp tay, bao che của một số tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh than; việc xử lý những vi phạm trong hoạt động sản xuất, kinh doanh than còn chưa nghiêm.
Đặc biệt thời gian gần đây, việc huy động sản lượng phát điện của các nhà máy nhiệt điện than để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ngày càng tăng, nên nhu cầu than cho sản xuất điện hiện nay tăng cao so với trước đây, trong khi khả năng sản xuất than trong nước là hữu hạn và không thể gia tăng đột biến sản lượng than khai thác trong thời gian ngắn, dẫn đến phải nhập khẩu than để đáp ứng nhu cầu trong nước.
Theo nhận định của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, nhu cầu than trong năm 2019 đã đạt mức cao nhất từ trước đến nay.
Trong khi đó, sự phối hợp giữa chủ đầu tư nhà máy nhiệt điện than với các doanh nghiệp cung cấp than còn chưa chặt chẽ, kịp thời dẫn đến khối lượng, chủng loại than cung cấp cho một số nhà máy nhiệt điện than còn chưa được đáp ứng kịp thời theo yêu cầu của nhà máy. Tại nhiều cuộc giao ban của Bộ Công Thương, vấn đề cung cấp than cho các dự án điện luôn được nêu lên và lãnh đạo Bộ Công Thương cũng đã quyết liệt chỉ đạo với tinh thần, cái gì làm được thì phải kiên quyết làm với tinh thần chủ động.
Tình hình thực tế khá “nóng” dẫn đến yêu cầu thực tế phải xem xét Chỉ thị 21 để cập nhật tình hình hướng tới mục tiêu xa hơn là “nắn” được dòng vàng đen để không chỉ bảo đảm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh than mà còn đáp ứng đủ, ổn định dài hạn than cho các nhà máy nhiệt điện than phục vụ thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng của đất nước trong thời gian tới.
Vấn đề cập nhật Chỉ thị 21 để đồng bộ, hiệu quả, gắn với tình hình mới đã được đặt ra tại cuộc họp ngày 1/4/2019 tại trụ sở Văn phòng Chính phủ về vấn đề cung cấp than cho sản xuất điện và các hộ tiêu thụ khác do Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng chủ trì. Tai cuộc họp, sau khi nghe ý kiến lãnh đạo các bộ, địa phương và các tập đoàn, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng chỉ đạo Bộ Công Thương báo cáo Thủ tướng Chính phủ nếu cần thiết nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Chỉ thị 21.
Vừa nâng tầm quản lý, vừa tháo gỡ “nút thắt”
Việc Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 29 được đánh giá là hết sức kịp thời. Kịp thời ở đây được hiểu theo hai khía cạnh. Thứ nhất, tiếp tục nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong hoạt động sản xuất, kinh doanh than khi mà loại khoáng sản này phân bố tại nhiều địa phương trên cả nước. Thứ hai, là tháo gỡ những nút thắt “nóng” liên quan đến khối lượng, chủng loại than cung cấp cho một số nhà máy nhiệt điện than còn chưa được đáp ứng kịp thời theo yêu cầu của nhà máy khi mà khả năng sản xuất than trong nước là hữu hạn và không thể gia tăng đột biến sản lượng than khai thác trong thời gian ngắn, dẫn đến phải nhập khẩu than.
NQ (ST)
Nguồn tin: Theo Quang Lộc/congthuong.vn
Ý kiến bạn đọc